M4 Sherman | |
---|---|
Một chiếc Sherman phiên bản M4A3E8 được trang bị pháo chính 76 mm | |
Loại | Xe tăng hạng trung |
Nơi chế tạo | Mỹ |
Lược sử hoạt động | |
Phục vụ | 1942 - 1955 (phục vụ cho quân đội Mỹ) |
Sử dụng bởi | Hoa Kỳ Argentina Brazil Canada Peru Hàn Quốc Philippines Israel Ấn Độ Trung Quốc Thái Lan Pakistan Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Đài Loan Nhật Bản Australia New Zealand Pháp Hà Lan Hy Lạp Thổ Nhĩ Kỳ Cuba |
Trận | Thế chiến II Nội chiến Hy Lạp |
Lược sử chế tạo | |
Năm thiết kế | 1940 |
Thông số | |
Khối lượng | 30.3 tấn (66.800 lb) |
Chiều dài | 5.84 m (19 ft 2 in) |
Chiều rộng | 2.62 m (8 ft 7 in) |
Chiều cao | 2.74 m (9 ft) |
Kíp chiến đấu | 5 |
Phương tiện bọc thép | 19 - 91 mm |
Vũ khí chính | Súng 75 mm M3 L/40 90 viên |
Vũ khí phụ | 1 súng máy.50 cal Browning M2HB 300 viên.50 2 súng máy.30-06 Browning M1919A4 4.750 viên.30-06 |
Động cơ | Continental R975 C1 gasoline 400 hp (298 kW)-tạo ra 2400 vòng xoắn 350 hp (253 kW)-tạo ra 2400 vòng xoắn |
Công suất/trọng lượng | 14 hp/tấn |
Hệ thống treo | Hệ thống treo vòng xoắn dây cót dọc(VVSS) |
Tầm hoạt động | 120 miles @ 175 US gal (145 imp. gal) / 80 octane 193 km @ 660 l / 80 octane |
Tốc độ | 38.5 km/h (24 mi/h) (khi nhẹ) |
Xe tăng Thế chiến II | |
---|---|
| |
Xe tăng hạng nhẹ | Fiat L6/40 · M3/M5 Stuart · M22 Locust · M24 Chaffee · Marmon-Herrington CTLS · Panzer 38(t) · Renault R40 · T-26 · T-40 · T-60 · T-70 · Tetrarch · Toldi |
Xe tăng hạng trung | 40 M Turan I · Fiat M11/39 · M2 · M3 Lee · M4 Sherman · Panzer III · Panzer IV · Panzer V Panther · T-34 · T-43 |
Xe tăng hành trình | Mk IV · Mk V Covenanter · Mk VI Crusader · Mk VII Cavalier · Mk VIII Cromwell · Mk VIII Challenger · Comet · Ram · Sentinel · Sherman Firefly |
Xe tăng bộ binh | |
Xe tăng hạng nặng | |
M4 Sherman, tên chính thức là Xe tăng Hạng trung M4 (Medium Tank, M4), là loại xe tăng hạng trung được quân đội Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh phương Tây sử dụng rộng rãi nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai. M4 Sherman được đánh giá có là có sự cơ động cao, đáng tin cậy, có giá thành khá thấp để sản xuất hàng loạt. Hơn mười nghìn xe tăng đã được cung cấp cho khối Thịnh vượng chung Anh và Liên Xô qua chương trình Lend-Lease. Xe tăng được người Anh đặt theo tên của vị tướng William T. Sherman trong Cuộc nội chiến Hoa Kỳ.[1]
M4 Sherman được phát triển dựa trên những kinh nghiệm từ tăng hạng trung M3, với sự thay đổi về trang bị vũ khí và vị trí đặt pháo. Thiểt kế của M4 Sherman đưa pháo 75 mm lên một tháp pháo độc lập, có giáp mặt hiệu quả khá tốt, gần bằng so với T-34 của Liên Xô. Về mặt hỏa lực thì pháo M3 có sức công phá ngang ngửa với pháo 76mm F-34, cũng như pháo M1 với sức xuyên phá gần bằng với pháo 85mm D-5T của các dòng T-34, tuy nhiên thì HE của pháo M1 kém hơn hẳn HE của D-5T vì cỡ nòng nhỏ hơn, nhưng bù lại thì Sherman có thêm một tháp súng máy trên nóc để hỗ trợ phòng không và chống bộ binh. Về độ cơ động, Sherman sở hữu động cơ với công suất khá tốt (từ 300 đến 400 mã lực đối với bản M4, M4A1, M4A2 và M4A4, 450 mã lực đối với bản M4A3) giúp xe có thể đạt vận tốc lên đến 48km/h và tầm hoạt động khoảng 240km.[2] Những yếu tố này đã giúp Sherman vượt trội hơn các loại xe tăng hạng nhẹ và hạng trung của Đức được trang bị trong giai đoạn 1939–42. M4 là loại xe tăng được sản xuất nhiều nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, với 49.234 chiếc được sản xuất với nhiều biến thể khác nhau, chỉ đứng sau T-34.[a] Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, xe tăng Sherman là một trong những xe tăng xung kích chủ chốt của Đồng minh phương Tây sau năm 1942.[4]
Việc sản xuất tương đối dễ dàng cho phép sản xuất số lượng lớn M4 cho các đơn vị, và khả năng dễ khôi phục và sửa chữa cho phép các phương tiện bị bắn hỏng hoặc hư hại nhẹ có thể được sửa chữa và đưa vào phục vụ trở lại nhanh chóng. Những yếu tố này kết hợp lại để tạo ra ưu thế về quân số cho Đồng minh trong hầu hết các trận chiến.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, xe Sherman được sử dụng trong Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Sáu ngày. Nhiều quân đội các nước dùng xe Sherman để thao diễn quân sự cho đến cuối thế kỷ 20.
Xe tăng M4 được Cục Vũ khí Lục quân Hoa Kỳ thiết kế nhằm mục đích thay thế cho xe tăng hạng trung M3. M3 là sự phát triển lớn của xe tăng hạng nhẹ M2, được đưa vào hoạt động trong năm 1939. M3 được phát triển như một biện pháp tức thời cho đến khi người Mỹ có thể nghĩ ra cách thiết kế một tháp pháo để lắp pháo 75 mm. Mặc dù M3 là một tích cực lớn khi được người Anh ở châu Phi sử dụng để chống lại các xe tăng Đức, nhưng việc đặt tháp pháo 37 mm lên trên đã khiến xe quá cao, và khẩu pháo chính gắn bên hông có góc bắn hạn chế, chỉ có thể ngắm được ở một góc khác nếu kíp lái phải xoay xe tăng theo hướng cần bắn. Mặc dù các nhà thiết kế Mỹ miễn cưỡng trong việc áp dụng pháo của người Anh vào mẫu xe, nhưng các nhà thiết kế vẫn sẵn sàng đón nhận những đóng góp của kíp lái Anh. Những ý tưởng của người Anh, cùng với thiết kế của Bộ tổng Tham mưu Canada, đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của xe tăng Sherman sau này.[5]
Thiết kế chi tiết của M4 đã được Cục Vũ khí đệ trình vào ngày 31 tháng 8 năm 1940, nhưng việc phát triển một mẫu thử nghiệm đã bị trì đến khi các mẫu thiết kế cuối cùng của xe tăng M3 được hoàn thành để đưa vào sản xuất hàng loạt. Vào ngày 18 tháng 4 năm 1941, Ủy ban Lực lượng Thiết giáp Hoa Kỳ đã chọn thiết kế đơn giản nhất trong số năm thiết kế. Được biết đến với cái tên T6, thiết kế là thân và khung của M3 đã được sửa đổi, mang theo một tháp pháo được thiết kế mới gắn súng 75 mm của M3. Sau này mẫu thiết kế đó được biết đến qua cái tên Sherman.
M4 Sherman là tập hợp của những kinh nghiệm rút ra từ việc thiết kế các loại xe tăng vào những năm 1930, trong số đó có hệ thống treo vòng xoắn dây cót dọc, xích tăng có vỏ bọc cao su, động cơ hướng tâm bố trí đằng sau và đĩa răng kéo đằng trước. Theo như dự định ban đầu thì M4 phải là một loại tăng có thời gian sản xuất nhanh, có độ linh hoạt và hoả lực cao, có tính năng hỗ trợ bộ binh và quan trọng nhất là M4 phải hạ được các loại tăng hạng trung của Đức Quốc xã cũng như các nước thuộc khối Trục.
Nguyên mẫu T6 được hoàn thành vào ngày 2 tháng 9 năm 1941. Phần thân trên của T6 là một khối đúc liền lớn. Thiết kế có một cửa sập duy nhất trên thân xe cho người lái và một cửa sập ở bên thân. Trong mẫu M4A1 sau này, kiểu đúc nguyên khối này vẫn được duy trì, cửa sập bên đã bị loại bỏ và cửa sập thứ hai được bổ sung cho người lái phụ. Bản T6 sửa đổi được tiêu chuẩn hóa thành M4 và bắt đầu đua vào sản xuất vào tháng 2 năm 1942.[6] Các mô hình thân xe sau đó sẽ được tiêu chuẩn hóa lại thành M4A1, với các mô hình thân hàn đầu tiên được nhận được định danh M4. Vào tháng 8 năm 1942, một biến thể của M4 đã được Cục quân khí Detroit đưa ra với các lớp giáp nghiêng. Thay đổi này nhằm mục đích cải thiện khả năng bảo vệ của xe tăng mà không làm tăng trọng lượng hoặc làm giảm các đặc tính kỹ thuật khác.
Trước khi Hoa Kỳ chính thức tham chiến, học thuyết về lực lượng Thiết giáp của họ đã được điều chỉnh lại trong cuốn Sổ tay Hướng dẫn Thực chiến 100-5 (xuất bản tháng 5 năm 1941) sau một thời gian phát triển mẫu M4. Sổ tay viết rằng:
Các sư đoàn thiết giáp được tổ chức với vai trò chủ đạo là thực hiện tốt các nhiệm vụ đòi hỏi sự cơ động cao và hỏa lực lớn. Các sư đoàn này sẽ phụ trách những nhiệm vụ mang tính quyết định. Nó có khả năng tham gia vào mọi hình thức giao chiến, nhưng vai trò chính vẫn là các hoạt động càn quét, tấn công các khu vực cánh sườn của kẻ thù.[7]
Do đó, M4 ban đầu không được thiết kế với vai trò là xe tăng hỗ trợ bộ binh. Chúng là mũi nhọn của các sư đoàn thiết giáp với sự hỗ trợ của các lực lượng bộ binh tùng thiết, và không nhất thiết chỉ đảm nhiệm nhiệm vụ tiêu diệt xe tăng địch, mà sẽ phụ thuộc vào quyết định của các cấp chỉ huy trên chiến trường. Cuốn sách hướng dẫn sử dụng xe tăng M4 (FM 17-33, "Tiểu đoàn Xe tăng, Hạng nhẹ và Hạng trung" vào tháng 9 năm 1942) viết rằng việc giao chiến với xe tăng địch khi cần thiết chỉ là một trong những nhiệm vụ chính của xe tăng M4, nhưng vấn đề này chỉ được đề cập trong một trang văn bản kèm với bốn sơ đồ mô phỏng về các trận chiến xe tăng, trong tổng số 142 trang.[8] Học thuyết thiết giáp ban đầu phần lớn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ những thành công ban đầu của chiến thuật Blitzkrieg của Đức.
Học thuyết của Hoa Kỳ đồng thời cho rằng công việc quan trọng nhất trong tác chiến chống tăng là ngăn chặn các cuộc tấn công ồ ạt của xe tăng đối phương - chủ yếu được thực hiện bằng pháo chống tăng được kéo và pháo tự hành, được vận hành bởi các tiểu đoàn "Pháo chống tăng", với sự hỗ trợ của các xe tăng khác nếu có thể.[9] Tốc độ là yếu tố quan trọng nhất để triển khai các pháo tự hành chống tăng để tiêu diệt các đợt xe tăng của kẻ thù. Tuy vậy, học thuyết này hiếm khi được áp dụng trong thực chiến vì được cho là thiếu thực tế. Các chỉ huy đơn vị thiết giáp không muốn giữ các đội hình pháo tự hành ở trạng thái dự bị; nếu làm như vậy, đội hình xung kích của đối phương sẽ dễ dàng trọc thủng tuyến phòng ngự của lực lượng thiết giáp đó. Điều đó sẽ không xảy ra nếu người Mỹ cho triển khai lực lượng pháo tự hành ở tuyến đầu ở bất kỳ cuộc tấn công nào.[10]
Việc sản xuất được bắt đầu lần đầu tiên tại nhà máy Lima Locomotive khi nhà máy đang sản xuất xe tăng cho lực lượng quân đội Anh. M4 được sản xuất cho quân đội Anh và Mỹ. Michael Dewar chính là người đầu tiên qua Mỹ đặt hàng cho quân Anh, và hiện tại vẫn còn một chiếc Sherman tại bảo tàng thiết giáp Bovington.
Trong thế chiến II, quân đội Mỹ có tổng cộng 16 sư đoàn thiết giáp và 70 tiểu đoàn tăng hoạt động độc lập. Một trong ba sư đoàn và 6 tiểu đoàn thiết giáp lính thuỷ đánh bộ được gửi đến mặt trận Thái Bình Dương. Vào tháng 9/1942, tổng thống Franklin D. Roosevelt đã chỉ thị cho các nhà máy phải sản xuất ít nhất được 120.000 chiếc xe tăng nhằm thành lập 61 sư đoàn thiết giáp để hỗ trợ cho lực lượng Đồng Minh tại Châu Âu. Mặc dù các nhà máy tại Mỹ không bị lực lượng không quân địch đánh bom nhưng phân nửa số nguyên liệu sản xuất xe tăng phải chuyển cho lượng lực hải quân Hoa Kỳ, khiến cho quá trình sản xuất diễn ra khá lâu và số lượng xe tăng xuất xưởng chỉ được một nửa so với mục tiêu. Theo như tính toán thì số nguyên liệu (sắt, thép,...) chuyển cho các xưởng đóng tàu có thể sản xuất được hơn 67.000 chiếc xe tăng, nên thực tế chỉ có khoảng 53.500 chiếc xe tăng được Mỹ sản xuất từ năm 1942-1945.
Có tổng cộng bảy loại biến thể của M4 đưa vào sản xuất: M4, M4A1, M4A2, M4A3, M4A4, M4A5, và M4A6. Mặc dù có nhiều biến thể như vậy nhưng cấu tạo của các phiên bản khác nhau của M4 vẫn khá giống như nhau. Ví dụ điển hình nhất chính là phiên bản biến thể A4 và A3, A4 không có gì hơn A3. M4A1 có hơi khác M4 về phần động cơ, thân tăng của M4A1 hơi cong. Phiên bản M4A4 có hệ thống động cơ dài hơn khiến cho thân tăng của phiên bản này khá dài và có khá nhiều bộ guốc phanh xích. M4A5 được thiết kế cho quân đội Canada. M4A6 có bệ máy giãn dài và chỉ có dưới 100 chiếc được sản xuất.
Đa số các phiên bản Sherman đều sử dụng động cơ chạy bằng xăng, có hai phiên bản Sherman là M4A2 và M4A6 lại sử dụng động cơ diesel. M4A2 được lắp ráp sáu động cơ GMC 6-71 theo cặp sắp xếp theo kiểu thẳng hàng.M4A6 lại sử dụng động cơ Caterpillar RD1820 bố trí toả tròn. M4A4 sử dụng động cơ Chrysler A57 multibank (thường được gửi đến các nước Đồng Minh và Liên Xô thông qua chương trình Lend-Lease). Các phiên bản M4 thường được trang bị động cơ toả tròn Continental. Các biến thể đời sau của nó cũng không thay đổi nhiều mà chỉ chú trọng thay thế hệ thống treo, ngăn chứa đạn mạ thiếc, gia cố lại lớp giáp bọc. Như phiên bản M4 Composite, nó được lắp ráp thân tăng cong và phần thân tăng-phía sau được hàn dính với nhau qua một lớp sắt. Quân Anh có cách sắp xếp và bố trí máy khác với quân Mỹ.
Nhiều chi tiết về hình dạng, trang bị vũ khí và hiệu suất được cải thiện trong quá trình sản xuất mà không có sự thay đổi về số kiểu cơ bản của xe tăng. Chúng bao gồm hệ thống treo mạnh hơn, kho trữ đạn "ướt" (W) an toàn hơn và cách bố trí giáp chắc chắn hơn hoặc hiệu quả hơn, chẳng hạn như mẫu M4 "Composite", có giá thành rẻ hơn. Người Anh đặt tên các mẫu thiết kế khác nhau của Shermans bằng số hiệu cho các mẫu thân khác nhau với các chữ cái chỉ sự khác biệt về vũ khí trang bị và hệ thống treo: A cho mẫu trang bị pháo 76mm, B mẫu trang bị lựu pháo 105mm, C cho mẫu trang bị pháo 17pdr, và Y cho bất kỳ phương tiện nào được trang bị HVSS; Ví dụ như khẩu M4A1 (76) được người Anh vận hành được gọi là Sherman IIA.
Định danh | Vũ khí chính | Thân xe | Động cơ |
---|---|---|---|
M4 | 75 mm | được hàn các phần lại | động cơ xăng Continental R975 cùng bộ tản nhiệt |
M4(105) | lựu pháo 105 mm | được hàn các phần lại | động cơ xăng Continental R975 cùng bộ tản nhiệt |
M4 Composite | 75 mm | nguyên khối mặt trước, hàn hai bên thân | động cơ xăng Continental R975 cùng bộ tản nhiệt |
M4A1 | 75 mm | đúc nguyên khối | động cơ xăng Continental R975 cùng bộ tản nhiệt |
M4A1(76)W | 76 mm | đúc nguyên khối | động cơ xăng Continental R975 cùng bộ tản nhiệt |
M4A2 | 75 mm | được hàn các phần lại | Động cơ diesel GM 6046 (kết hợp với 6-71s) |
M4A2(76)W | 76 mm | được hàn các phần lại | Động cơ diesel GM 6046 (kết hợp với 6-71s) |
M4A3(75)W | 75 mm | được hàn các phần lại | động cơ xăng Ford GAA V8 |
M4A3E2 "Jumbo" | 75 mm (một số 76 mm) | được hàn các phần lại | động cơ xăng Ford GAA V8 |
M4A3(76)W | 76 mm | được hàn các phần lại | động cơ xăng Ford GAA V8 |
M4A4 | 75 mm | được hàn các phần lại; mở rộng chiều dài xe | động cơ xăng Chrysler A57 |
M4A6 | 75 mm | nguyên khối mặt trước, hàn hai bên thân; mở rộng chiều dài xe | động cơ diesel Caterpillar D200A cùng bộ tản nhiệt |
W = hệ thống kho trữ đạn ướt |
Các phiên bản đầu của Sherman được trang bị pháo chính 75 mm. Mặc dù Cục quân nhu đã tiến hành thiết kế các mẫu xe tăng T20 để thay thế cho Sherman, Quân đội Hoa Kỳ vẫn hài lòng với Sherman và Bộ chỉ huy Thiết giáp cho rằng một số chi tiết trên các mẫu đầu tiên không đạt yêu cầu của họ. Nhiều yếu tố và thiết kế mới đã được áp dụng vào các phiên bản Sherman mới sau này.[11] Bản M4A1, M4A2 và M4A3 được lắp đặt tháp pháo rộng hơn với pháo 76 mm được lấy từ thí nghiệm xe tăng T23. Bản 76 mm tiêu chuẩn đầu tiên được lắp đặt trên phiên bản M4A1, được đưa vào biên chế vào tháng 1 năm 1944, và được thực chiến vào tháng 7 năm 1944 trong Chiến dịch Cobra. Nhiều biến thể của M4 và M4A3 đựoc sản xuất với lựu pháo 105 mm. Mẫu Sherman đầu tiên được trang bị pháo 105 mm là bản M4, được đưa vào biên chế trong tháng 2 năm 1944.
Từ tháng 5 tới tháng 7 năm 1944. Lục quân Hoa Kỳ đã chấp nhận sử dụng 254 xe tăng M4A3E2 Jumbo Sherman, với hệ thống giáp rất dày và mang pháo 75 mm trong tháp pháo T23 mới, chắc chắn hơn, có nhiệm vụ tiêu diệt các cứ điểm, hộ tống đoàn vận tải và tiên phong cho các mũi xung kích thiết giáp. M4A3 là phiên bản đầu tiên được sản xuất với hệ thống lò xo treo ngang HVSS cùng hệ thống bánh xích lớn, được đưa vào sản xuất trong tháng 8 năm 1944. Nhờ sự hiệu quả do hệ thống HVSS mang lại, mẫu thiết kế này được các kíp lái gọi là "Easy Eight", dựa trên định danh của mẫu thiết kế "E8". Các phiên bản M4 và M4A3 trang bị lựu pháo 105 mm, cùng với các phiên bản M4A1 và M4A2 mang pháo 76 mm, đều được trang bị hệ thống HVSS. Các kĩ sư người Mỹ và Anh sau đó phát triển thêm các loại xe chuyên dụng dựa trên thân xe Sherman, mặc dù chỉ có số ít được tham chiến, bao gồm bản Sherman có gắn lưỡi xúc, Sherman Duplex Drive. Sherman "Zippo" và mẫu mang hệ thống pháo phản lực T34 Calliope. Các thiết kế của người Anh (Sherman DD và Sherman quét mìn) góp phần hình thành lên các lực lượng chuyên dụng đặc biệt, được biết đến là "Những gã hề của Hobart" - "Hobart's Funnies", đặt theo tên của Thiếu tướng Percy Hobart, Sư đoàn trưởng Sư đoàn Thiết giáp 79 Anh Quốc.
Thân xe của Sherman cũng được sử dụng để phát triển các loại xe hỗ trợ khác, bao gồm pháo chống tăng M10 Wolverine và M36 Jackson; pháo tự hành M7B1, M12, M40 và M43; xe thiết giáp sửa chữa M32 và M74 trang bị cần cẩu, hệ thống kéo và pháo cối 81 mm; và M34 (phát triển từ M32B1) và M35 (phát triển từ M10A1) có nhiệm vụ chuyên chở pháo.
Định danh | Sản xuất | Số lượng | Thời gian |
---|---|---|---|
M4 | Công ty Pressed Steel Công ty Baldwin Locomotive Tập toàn American Locomotive Công ty Pullman-Standard Cục quân khí Thiết giáp Detroit |
6,748 | Tháng 7 năm 1942 – Tháng 1 năm 1944 |
M4(105) | Cục quân khí Thiết giáp Detroit | 800 | Tháng 2 năm 1944 – Tháng 9 năm 1944 |
M4(105) HVSS | Cục quân khí Thiết giáp Detroit | 841 | Tháng 9 năm 1944 – Tháng 3 năm 1945 |
M4A1 | Công ty Lima Locomotive Công ty Pressed Steel Công ty Pacific Car and Foundry |
6,281 | Tháng 2 năm 1942 – Tháng 12 năm 1943 |
M4A1(76)W | Công ty Pressed Steel | 2,171 | Tháng 1 năm 1944 – Tháng 12 năm 1944 |
M4A1(76)W HVSS | Công ty Pressed Steel | 1,255 | Tháng 1 năm 1945 – Tháng 7 năm 1945 |
M4A2 | Cục Thiết giáp Fisher (Grand Blanc)[15] Công ty Pullman-Standard Tập đoàn American Locomotive Công ty Baldwin Locomotive Công ty Federal Machine and Welder |
8,053 | Tháng 4 năm 1942 – Tháng 5 năm 1944 |
M4A2(76)W | Cục Thiết giáp Fisher | 1,594 | Tháng 5 năm 1944 – Tháng 12 năm 1944 |
M4A2(76)W HVSS | Cục Thiết giáp Fisher Công ty Pressed Steel |
1,321 | Tháng 1 năm 1945 – Tháng 5 năm 1945 |
M4A3 | Công ty Ford Motor | 1,690 | Tháng 6 năm 1942 – Tháng 9 năm 1943 |
M4A3(75)W | Cục Thiết giáp Fisher | 2,420 | Tháng 2 năm 1944 – Tháng 12 năm 1944 |
M4A3(75)W HVSS | Cục Thiết giáp Fisher | 651 | Tháng 1 năm 1945 – Tháng 3 năm 1945 |
M4A3E2 | Cục Thiết giáp Fisher | 254 | Tháng 5 năm 1944 – Tháng 7 năm 1944 |
M4A3(76)W | Cục Thiết giáp Detroit Cục Thiết giáp Fisher |
1,400 500 Tổng cộng 1,925[16][b] |
Tháng 2 năm 1944 – Tháng 7 1944 Tháng 9 năm 1944 – Tháng 12 1944 |
M4A3(76)W HVSS | Cục Thiết giáp Detroit | 2,617 | Tháng 7 năm 1944 – Tháng 4 năm 1945 |
M4A3(105) | Cục Thiết giáp Detroit | 500 | Tháng 5 năm 1944 – Tháng 9 năm 1944 |
M4A3(105) HVSS | Cục Thiết giáp Detroit | 2,539 | Tháng 9 năm 1944 – Tháng 6 năm 1945 |
M4A4 | Cục Thiết giáp Detroit | 7,499 | Tháng 7 năm 1942 – Tháng 11 năm 1943 |
M4A6 | Cục Thiết giáp Detroit | 75 | Tháo 10 năm 1943 – Tháng 2 năm 1944 |
Tổng cộng | 49,234 |
Các phiên bản đầu tiên của M4 và M4A1 được trang bị kính ngắm M38A2, có độ phóng đại ở mức 1,44x với trường nhìn 9 độ. Các phiên bản sau của kính tiềm vọng này có các mặt chiếu sáng. M38 bị lính tăng Mỹ than phiền khá nhiều vì độ phóng đại và trường nhìn đều quá kém, không thể ngắm bắn chính xác các mục tiêu ở cự ly xa hơn vài trăm mét. Ở thời điểm đó, xe tăng Panzer IV của Đức trang bị kính ngắm TZF-5F có độ phóng đại 2,5x với trường nhìn 25°, xe tăng T-34-76 của Liên Xô thì trang bị kính ngắm TMFD-7 có độ phóng đại 2,5x với trường nhìn 15°. Như vậy, trong các loại xe tăng chủ lực giai đoạn 1941-đầu 1943 thì M4 Sherman có kính ngắm vào loại kém nhất. Tại chiến trường bằng phẳng như ở Bắc Phi, xe tăng Đức thường có thể bắn vào M4 Sherman từ cự ly trên 1.000 mét, xa hơn cự ly mà xạ thủ M4 có thể ngắm bắn chính xác. Vào tháng 1/1943, lính tăng Mỹ ở Sư đoàn thiết giáp 1 tại Bắc Phi đã gửi kiến nghị đòi thay thế kính ngắm M38 ngay lập tức[17]
Những yếu kém về kính ngắm của xe tăng Mỹ đã được báo động tới các quan chức, quân đội Hoa Kỳ đã nỗ lực nghiên cứu để khắc phục vấn đề. Đến tháng 7/1943, các loạt M4 được sản xuất với kính ngắm kiểu mới M70F có chất lượng được cải thiện khá nhiều. Quân đội tiếp tục phát triển nhiều phiên bản khác nhau của kính ngắm này. Nó có độ phóng đại 3X với trường nhìn 12 độ 19 phút[17] Nhưng chẳng bao lâu sau đó, xe tăng Panther của Đức đã được trang bị kính ngắm TZF-12A có độ phóng đại 2 chế độ: 2,5x với trường nhìn 28° hoặc 5x với trường nhìn 14°; xe tăng Tiger I các loạt sản xuất sau cũng được trang bị kính ngắm TZF-9C có thông số tương tự. Xe tăng T-34-85 của Liên Xô (chế tạo từ tháng 3/1944) thì được trang bị kính ngắm TSh-16 có độ phóng đại 4x với trường nhìn 16°, xe tăng IS-2 được trang bị kính ngắm TSh-17 có thông số tương tự. Như vậy, trong các loại xe tăng chủ lực giai đoạn giữa 1943 đến cuối năm 1944 thì M4 Sherman vẫn có kính ngắm vào loại kém nhất.
Đến cuối chiến tranh, M4 Sherman các phiên bản mang pháo 76m mới được trang bị kính ngắm M71D có độ phóng đại 5x với trường nhìn 13°, tức là có tính năng gần tương đương với kính ngắm trên xe tăng Liên Xô và Đức, nhưng chất lượng thủy tinh làm thấu kính của Mỹ khi đó vẫn kém hơn (thiếu lớp phủ chống phản chiếu quang học) nên hình ảnh mục tiêu cũng bị mờ hơn.
Ban đầu, M4 được lắp ráp pháo chính loại M3 cỡ 75 mm L/40. Khi tham chiến lần đầu tại mặt trận Bắc Phi, Sherman có thể hạ gục được cả hai đối thủ thiết giáp từ Đức là Panzer III và Panzer IV. Bộ quốc phòng Mỹ đã phán đoán được là quân đội Đức Quốc xã sẽ tung ra hai loại tăng mới là Tiger I và Panther, nhưng chỉ với một số lượng nhỏ. Trái lại, quân Đức đã sản xuất được hơn 6.000 chiếc Panther từ năm 1943 đến cuối cuộc chiến, chiếm phần lớn trong các sư đoàn thiết giáp, khiến cho quân Mỹ thực sự bất ngờ. Đến năm 1944, các sư đoàn tăng của Đức Quốc xã đều có số lượng đáng kể xe tăng Panther làm chủ lực, Tiger và Panzer IV hoạt động nhằm bổ trợ cho Panther và yểm trợ bộ binh.
Như đã nói, pháo chính 75 mm của Sherman không thể nào xuyên được giáp trước của Tiger và Panther. Vào năm 1943, bộ quốc phòng Mỹ đã đưa ra hai mẫu pháo cải tiến gồm một mẫu có cỡ nòng 90 mm và một mẫu có tác dụng chống tăng có cỡ nòng 76 mm.Từ sau năm 1943, các loại pháo tự hành chống tăng và tăng của Đức Quốc xã như Panzer IV; StuG III; Marder III đều được trang bị pháo chính KwK-40 7.5 cm L/48. Tất cả các loại này đều không thể địch lại các loại tăng mới của Liên Xô như T-34/85; IS-2... nhưng vẫn có thể hạ gục được Sherman từ một khoảng cách nhất định. Việc pháo chính của Sherman thua kém pháo chính của lực lượng thiết giáp Đức đã dẫn đến việc sản xuất mẫu tăng Sherman mới có pháo chính M4 76 mm L/55 vào tháng 4/1944. Sau khi cải chế xong, pháo 76 mm M4 có thể được xem là nhỉnh hơn so với pháo 7.5 cm KwK 40, lực lượng pháo tự hành chống tăng Đức chỉ toàn sử dụng loại này khi phòng thủ tại Pháp.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, gần 19.247 chiếc Sherman đã được chuyển giao cho lục quân Mỹ và khoảng 1.114 chiếc được chuyển cho lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ.[18] Tuy nhiên ngoài hai con số trên, lực lượng Mỹ còn chuyển giao cho quân Anh 17.184 chiếc, 4.102 chiếc cho Liên Xô[19], và có thể 812 chiếc được chuyển cho Trung Quốc.[20] Số tăng được chuyển đi theo như hiệp ước trao đổi giữa khối Đồng Minh chống phát xít.
Lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ sử dụng phiên bản Sherman M4A2 (sử dụng động cơ diesel) và M4A3 (sử dụng động cơ gas) tại mặt trận Thái Bình Dương. Tuy nhiên ngay sau đó bộ quốc phòng Mỹ không cho phép lực lượng quân đội trong nước sử dụng các phiên bản tăng có động cơ đốt bằng nguyên liệu diesel, mà chỉ được dùng trong thử nghiệm và tập trận. Sau đó M4A2 và M4A4 trở thành hai loại tăng được xuất qua các nước khác nhiều nhất thông qua chương trình Lend-Lease.
Sherman được thiết kế ra chủ yếu nhằm tiếp tế cho lực lượng quân Anh tại chiến trường Bắc Phi, tình hình càng trở nên nguy cấp khi Rommel đã chiếm được Tobruk, kênh đào Suez và Ai Cập.Bộ quốc phòng Mỹ quyết định tập hợp toàn bộ số Sherman lại với nhau và điều vào sư đoàn thiết giáp số hai của Patton nhằm đánh bật quân Đức ra khỏi Ai Cập.Nhưng việc chuyển giao Sherman từ Anh qua châu Phi và có khoảng 300 chiếc đến Bắc Phi vào tháng 9/1942.
Phiên bản M4A1[21] lần đầu tiên tham chiến trong trận El Alamein lần thứ hai vào tháng 10/1942 cùng với sư đoàn quân số 8 của lực lượng Anh. Chiếc Sherman đầu tiên của lực lượng Mỹ là phiên bản M4A1 được thấy tham chiến lần đầu tiên trong chiến dịch Torch. Khi đối đầu với lực lượng thiết giáp Đức, Sherman hoàn toàn có khả năng chiến thắng các loại xe tăng hạng trung của Đức như Panzer III với pháo chính 50 mm L/60, Panzer IV đời đầu với pháo chính nòng ngắn 75 mm L/24. Số M4 và M4A1 được cử đến mặt trận Bắc Phi nhằm thay thế kiểu tăng hiện tại của các sư đoàn lục quân Mỹ là M3 Lee. M4 và M4A1 là hai kiểu Sherman chính mà quân đội Mỹ sử dụng trong gần như suốt cuộc chiến. Đến năm 1944, bộ quốc phòng Mỹ chính thức thay thế M4 và M4A1 bằng kiểu Sherman mới là M4A3 với động cơ có công suất 500 mã lực (370 kW). Một vài chiếc được tận dụng đến tận cuối cuộc chiến.
Khi đối đầu với đối thủ thiết giáp mới từ Đức là Panther và Tiger I, Sherman tỏ ra thua kém hơn hẳn về lớp giáp bọc và vũ khí chính. Pháo chính 88 mm L/56 có sức xuyên giáp mạnh hơn Sherman khá nhiều, lớp giáp trước tháp pháo dày đến gần 120 mm của nó không thể bị xuyên thủng bởi pháo chính 75 mm của Sherman. Tuy nhiên, nếu có kíp chiến đấu dày dặn kinh nghiệm tận dụng được độ linh động của xe, Sherman vẫn có thể hạ gục được Tiger-I (bằng cách bắn vào hông xe) nhưng với một mức thiệt hại cao. Về đối thủ Panzer IV, pháo chính của Panzer-IV cũng đã được nâng cấp thành pháo 75 mm L/48, lớp giáp bọc dày 80 mm của nó cũng khiến cho pháo chính của Sherman trở nên kém hiệu quả. Sau khi Đức tung ra Tiger I và Panther, pháo chính 75 mm của Sherman càng trở nên "lạc hậu" hơn nữa.
Vào tháng 7/1944, phiên bản Sherman mới với pháo chính 76 mm L/55 chính là M4A1, tiếp sau đó là M4A3. Từ sau năm 1944 đến cuối cuộc chiến, hơn nửa số Sherman mà Mỹ huy động tham chiến đều có pháo chính 76 mm. Chiếc Sherman mang pháo 76 mm đầu tiên tham chiến chính là chiếc Sherman M4A3E8(76)W, nó hoạt động vào tháng 12/1944.
Ở góc đối diện, pháo chính 76 mm L/55 khi sử dụng đạn M79 AP có thể bắn thủng giáp trước của Tiger I ở cự ly 700 - 1.000 mét, cho phép M4 Sherman bớt thất thế trước các loại Tiger I và Panther của Đức. Nếu sử dụng loại đạn HVAP thì Sherman có thể hạ Tiger I ở cự ly tới 1.500 mét. Tuy nhiên, loại đạn HVAP này chỉ được sản xuất từ tháng 8 năm 1944, và loại đạn này rất hiếm và đắt nên chỉ được sản xuất một lượng nhỏ để trang bị cho các đơn vị tinh nhuệ, và ngay cả các đơn vị này cũng chỉ được trang bị một số viên HVAP cho mỗi xe (ở thời điểm cuối năm 1944, số đạn HVAP còn ít hơn số xe tăng Mỹ được sản xuất, nên trung bình mỗi xe tăng Mỹ còn chưa có đủ 1 viên đạn HVAP cho mỗi xe). Còn nếu chỉ sử dụng đạn xuyên giáp thông thường như AP, APCBC thì kiểu pháo 76 mm này vẫn chỉ có thể bắn thủng được giáp trước của Tiger I ở cự ly vài trăm mét trở lại, nhưng với một loại xe tăng hạng trung thì khả năng này được coi là tạm đủ.
M4 Sherman càng trở nên mỏng manh hơn khi đối mặt với xe tăng Tiger I trang bị pháo 88mm vượt trội của Đức. Trong khi phần lớn các loại xe tăng của Liên Xô chạy bằng dầu diesel, loại nhiên liệu an toàn và ít gây cháy, xe tăng Sherman lại sử dụng động cơ xăng, thứ nhiên liệu dễ bắt lửa hơn nhiều. Nếu Sherman trúng một phát đạn 88mm, kíp lái 5 người bên trong chỉ có vài giây để thoát ra ngoài trước khi bị thiêu sống. Do đó, tăng Sherman còn có biệt danh là Ronson (bật lửa), bởi nó dễ dàng bốc cháy ngay lần đầu trúng đạn. Lính Đức thì gọi nó là “Tommy Cooker”, nghĩa là “nồi nấu lính Anh” do các mẫu xe tăng Sherman đời đầu không có hệ thống gác đạn ướt, và các kíp lái người Anh thường có thói quen chất càng nhiều đạn càng tốt vào xe tăng, khiến nhiều xe tăng bị cháy sau khi bị bắn trúng.
Sau những chỉ trích về việc xe dễ bốc cháy khi trúng đạn khiến tỷ lệ kíp lái bị thương vong rất cao, các phiên bản từ sau năm 1943 áp dụng "hệ thống thùng đạn ướt", theo đó khi xe tăng bị trúng đạn và động cơ bốc cháy, hệ thống sẽ tự động phun đầy nước vào vị trí của nạp đạn viên để ngăn đạn dược bị kích nổ. Tất nhiên là nếu lửa cháy mạnh thì số đạn này cũng sẽ phát nổ, tuy nhiên hệ thống này sẽ giúp "câu giờ" để kíp lái kịp thoát ra ngoài.
Trong Thế chiến 2, Mỹ đã viện trợ cho Liên Xô khoảng 4.100 xe tăng M4A2 Sherman theo Chương trình Lend-Lease, bao gồm 2.007 chiếc mang pháo 75mm và 2.095 chiếc mang pháo 76mm hiệu quả hơn[22] Số lượng xe tăng Sherman được chuyển giao cho Liên Xô chiếm 18,6% tổng số xe tăng Sherman trong diện Lend-Lease. Chiếc M4A2 Sherman mang pháo 76 mm đầu tiên được chuyển giao cho Liên Xô vào cuối hè năm 1944.[23]
Những mẫu M4A2 đầu tiên được Hồng quân Liên Xô coi là thiếu tin cậy do vị trí gác đạn của chúng được lắp theo cách truyền thống khiến hầm đạn dễ bị bắn trúng khi giao chiến với quân Đức. [24] Các kỹ sư Liên Xô nhận thấy đạn nổ mạnh (HE) cho pháo 75mm của M4 có xu hướng phát nổ bất ngờ. Lãnh đạo Liên Xô là Stalin phàn nàn với Tổng thống Mỹ Roosevelt trong một bức thư vào năm 1942: "Tôi cho rằng nhiệm vụ của tôi là thông báo cho ngài rằng, theo các chuyên gia của chúng tôi ở mặt trận, xe tăng của Mỹ dễ dàng bị đốt cháy bởi những viên đạn chống tăng trúng vào phía sau hoặc hai bên, đó là do loại xăng mà các xe tăng của Mỹ sử dụng đã tạo ra một lớp khí ga dày bên trong xe tăng, tạo điều kiện cho các đám cháy (khi xe trúng đạn)."[25] Vấn đề này sau đó được khắc phục bằng cách thay đổi thiết kế tạo gác đạn ướt và chuyển xuống dưới gầm xe để đạn làm giảm khả năng nổ hầm đạn. Ngoài ra, mẫu M4A2 có xu hướng bị lật cao hơn trong các vụ tai nạn và va chạm trên đường hoặc do địa hình gồ ghề hơn T-34 do trọng tâm của nó cao hơn.
Vào năm 1945, nhiều đơn vị thiết giáp của Hồng quân được trang bị hoàn toàn xe tăng Sherman như Quân đoàn Cơ giới Cận vệ 1, 3 và 9. Sherman nhận được nhiều đánh giá tích cực từ các kíp lái Liên Xô về độ tin cậy, dễ bảo trì, có hỏa lực tốt (đặc biệt là bản mang pháo 76 mm), hệ thống giáp bảo vệ tốt, cũng như bộ nguồn phụ (APU) có thể sạc pin cho xe tăng mà không cần phải chạy động cơ chính như T-34.[26]. Nhược điểm của M4 so với T-34 là xích xe của M4 cũng hẹp hơn T-34 nên dễ bị sa lầy hơn khi đi trên tuyết hoặc bùn nhão. Ở khí hậu lạnh khắc nghiệt (dưới âm 40 độ C), M4 không thể hoạt động được do nhiên liệu bị đóng băng, còn T-34 thì không gặp vấn đề này vì được trang bị hệ thống làm ấm nhiên liệu. Ngoài ra, M4 thường không được trang bị đạn xuyên giáp cao cấp APCR (HVAP) (ở thời điểm đầu năm 1944, quân đội Mỹ chỉ có thể cố gắng trang bị cho mỗi xe tăng một viên đạn APCR do thiếu nguồn cung quặng tungsten, đến tháng 12 năm 1944 thì con số nâng lên chỉ hai-ba viên APCR mỗi xe, do người Mỹ ưu tiên cung cấp APCR cho các đơn vị pháo tự hành chống tăng). Trong khi đó, mỗi chiếc T-34-85 thường được trang bị tới 5-6 viên đạn APCR mỗi xe[27]
Về vỏ giáp, theo thực nghiệm của Đức thì T-34 có khả năng chống chịu tốt hơn. Pháo 88mm L/56 của Tiger I có khả năng bắn xuyên giáp trước của một chiếc M4 Sherman trong khoảng cách 1.800 và 2.100 mét[28], còn xe tăng T-34 của Liên Xô trong khoảng cách 1.000 và 1.400 mét[28] Về độ dày giáp hông, T-34 cũng có chỉ số tốt hơn. T-34/76 có hông xe dày 40mm nghiêng 40 độ, hông tháp pháo là 45mm nghiêng 30 độ[29], T-34/85 có hông xe dày 45mm nghiêng 40 độ, hông tháp pháo là 75mm nghiêng 20 độ[30], còn M4A2 Sherman có giáp hông xe dày 38mm đặt thẳng đứng, hông tháp pháo là 50mm nghiêng 5 độ[31]
Về hỏa lực, khẩu D-5T 85mm L/52 của T-34 và pháo M1A2 cỡ 76mm L/55 trên M4 Sherman xấp xỉ nhau ở khả năng xuyên giáp của đạn động năng APCBC, nhưng đạn nổ mạnh (HE) của khẩu 85mm thì mạnh hơn đáng kể (đạn O-365K chứa được 741 gram chất nổ[32] so với 396 gram của đạn M42A1 cỡ 76mm[33]
Nhà sử học David M. Glantz viết: "Sherman có độ rộng bánh xích hẹp khiến nó không cơ động trên bùn bằng các loại xe của Đức và Liên Xô, đồng thời nó tiêu thụ rất nhiều nhiên liệu...", lính tăng Liên Xô thích xe tăng Mỹ hơn xe tăng của Anh, nhưng họ vẫn thích xe tăng Liên Xô nhất[34][35].
Theo Anh hùng Liên bang Xô viết, Đại tá Dmitry Loza - Chỉ huy Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn Xe tăng Cận vệ 46 trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, sau này nhận xét về xe tăng Sherman: "...Chúng tôi gọi chúng là 'Emchas' (M4 theo tiếng Nga). Ban đầu chúng được trang bị pháo chính ngắn, các phiên bản sau có pháo dài hơn và được lắp bộ bù giật (muzzle brake). Ở mặt giáp phía trước có một chốt khóa để cố định pháo khi chúng tôi hành quân. Pháo chính khá dài. Nhìn chung, đây là một xe tăng tốt, nhưng như bất kỳ xe tăng khác, nó đều có những điểm cộng và điểm trừ. Khi có người nói với tôi rằng đây là một xe tăng kém, tôi trả lời: 'Xin lỗi! Không thể nói đó là xe tăng kém chỉ dựa trên ý kiến của mội người. Kém so với cái gì?"[36]
Ở mặt trận châu Âu - nơi phải tham chiến với Đức Quốc xã, Mỹ bắt buộc phải huy động lực lượng Sherman với chất lượng tốt nhất, ngoài mặt trận châu Âu, mặt trận Thái Bình Dương cũng là một trong những nơi tham chiến quan trọng, tuy nhiên việc sử dụng tăng ở đây là không phù hợp nên chỉ có một số lượng nhỏ Sherman được điều đến mặt trận Thái Bình Dương (nhằm tiếp tế cho cả lực lượng Đồng Minh tại đây). Trong số hơn 16 sư đoàn thiết giáp và 70 tiểu đoàn tăng độc lập, chỉ có khoảng 3 sư đoàn tăng được gửi đến hoạt động tại Thái Bình Dương.[37]
Giống như quân Mỹ, giới quân sự Nhật chỉ điều duy nhất mỗi sư đoàn thiết giáp số hai hoạt động trong toàn bộ cuộc chiến.[38] Vì địa hình ở các đảo châu Á - Thái Bình Dương chủ yếu là rừng già, cao nguyên, núi cao hiểm trở với khí hậu ẩm ướt và chỉ thích hợp để bộ binh chiến đấu với nhau nên việc sử dụng xe tăng tại đây rất khó khăn. Xe tăng Sherman được sử dụng như các loại xe vận chuyển bộ binh, diễn tập và yểm trợ bộ binh trong một số chiến dịch tấn công cơ động có lô-cốt.[39]
Trong những giai đoạn đầu của cuộc chiến, đặc biệt là trong Chiến dịch Guadalcanal, quân Mỹ thường sử dụng tăng hạng nhẹ M2A4 để đối đầu với xe tăng hạng nhẹ Ha-Go Kiểu 95 của quân Nhật; cả hai đều được trang bị pháo 37 mm, nhưng M2 (sản xuất năm 1940) vẫn mạnh hơn 95 Ha-Go do sản xuất sau đến 5 năm.[40] Đến năm 1943, quân Nhật vẫn sử dụng hai kiểu tăng hạng nhẹ chủ yếu của họ là Ha-Go và Chi-Ha Kiểu 97, trong khi đó quân Mỹ đã thay thế M2A4 bằng M4 (có pháo chính 75 mm).[41] Lực lượng Trung Quốc tại Ấn Độ nhận được khoảng 100 chiếc M4 và dùng chúng trong những chiến dịch phản công rất có hiệu quả vào những năm 1943-1944.
Từ sau năm 1943, lực lượng đế quốc Nhật Bản bắt đầu thay thế các loại tăng hạng nhẹ của họ bằng loại tăng hạng trung mới Chi-Nu Kiểu 3 (với pháo chính 75 mm), loại tăng này được thiết kế ra nhằm bảo vệ các công trình quân sự trên đảo, yểm trợ bộ binh và phòng thủ các hòn đảo gần Nhật. Lực lượng Đồng Minh cũng đáp trả lại bằng cách đưa M4 vào chiến trường, pháo chính của M4 sử dụng đạn trái phá (HE), ống ngắm quang học có tầm bắn xa và chính xác hơn so với xe Nhật. Với các tính năng trên M4 có thể dễ dàng hạ gục được các loại xe tăng hạng trung và nhẹ của Nhật. Mặc dù các loại pháo tự hành (chống tăng) cũng được đưa vào nhằm hủy diệt các lô-cốt và boong-ke địch, nhưng M4 vẫn được trang bị thêm nòng phun lửa nhằm tiêu diệt lính Nhật ngụy trang trong rừng già và hang động.[42][43]
Sau thế chiến II, quân Mỹ vẫn sử dụng tăng Sherman phiên bản M4A3E8 Easy Eight (được trang bị pháo chính 76 mm hoặc 105 mm). Số Sherman còn lại sau thế chiến II chủ yếu được sử dụng trong chiến tranh Triều Tiên. Mặc dù không còn đảm nhận vai trò là loại tăng chính trong các cuộc chiến, nhưng Sherman vẫn được phân vào các sư đoàn hoặc tiểu đoàn tăng thiết giáp cùng với tăng hạng nặng M26 Pershing và tăng hạng trung M46 Patton.
Trong chiến tranh Triều Tiên, M4A3E8 là thế hệ tăng M4 duy nhất có thể loại xe tăng T-34/85 của Triều Tiên ra khỏi vòng chiến. Cả M4 và T-34 đều có thể hạ gục đối thủ chỉ trong phát bắn trúng đầu tiên, tuy nhiên M4 có lợi thế ở các kíp lái Mỹ được đào tạo kỹ hơn so với Triều Tiên và dùng điện đài tốt hơn, trong khi T-34 có giáp hông dày hơn, thân xe thấp hơn nên khó trúng đạn hơn và có khả năng chạy đường trường tốt hơn.
Trong những năm 1950, M4 dần trở nên lạc hậu và bị thay thế toàn bộ bởi dòng tăng M48 Patton. Mỹ đã tìm cách chuyển toàn bộ số Sherman cho quân Đồng Minh và các nước khác, M4 được sử dụng rất rộng rãi sau thế chiến bởi khá nhiều quốc gia. Đến khoảng đầu thập niên 1980 thì toàn bộ M4 Sherman ở các nước này đều đã nghỉ hưu hoặc đưa vào kho lưu trữ.
Ngoài nước Mỹ, các nước Đồng Minh cũng được cung ứng một số lượng lớn M4 Sherman. Anh Quốc chiếm 80% trên tổng số Sherman được Mỹ viện trợ. Từ năm 1942-1945, Liên Xô nhận được hơn 3664 xe tăng Sherman kiểu M4A2 với động cơ diesel, một vài trong số chúng vẫn hoạt động sau thế chiến. Trong chiến tranh Triều Tiên, Sherman được quân đội Mỹ trang bị cho quân đội Hàn Quốc và các nước Đồng Minh.
Ngoài ra, M4 Sherman còn được người Israel sử dụng. Các biến thể M4 của quân đội Israel là M-50 mang pháo 75 mm và M-51 Super Sherman mang pháo 105 mm, nó đã chứng tỏ độ tin cậy khi sau nhiều năm vẫn còn được thiết kế các phiên bản mới và sử dụng. Ngoài chiến tranh Triều Tiên, M4 còn được sử dụng trong cuộc chiến tranh 6 ngày, đối đầu với xe tăng T-34/85 của quân đội các nước Ả Rập; chiến tranh Yom Kippur, đối đầu với hai loại tăng mới và mạnh hơn mà các nước Ả Rập mua từ Liên Xô là T-54/55.
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên afvdb.50megs.com
Dmitriy Fedorovich, on which American tanks did you fight?..."On Shermans. We called them "Emchas", from M4 [in Russian, em chetyrye]. Initially, they had the short main gun, and later they began to arrive with the long gun and muzzle brake. On the front slope armor, there was a travel lock for securing the barrel during road marches. The main gun was quite long. Overall, this was a good vehicle but, as with any tank, it had its pluses and minuses. When someone says to me that this was a bad tank, I respond, "Excuse me!" One cannot say that this was a bad tank. Bad as compared to what?"
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên M. Baryatinsky 2006, p. 67
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên M. Baryatinsky 2006, p. 66
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về M4 Sherman. |
Xe tăng và xe bọc thép của quân đội Mỹ trong Thế chiến thứ hai | |
---|---|
Xe tăng hạng nhẹ | M1 Combat Car · M2 Light Tank · M3/M5 Light Tank · M22 Light Tank · M24 Light Tank · Marmon-Herrington CTLS |
Xe tăng hạng trung và hạng nặng | |
Pháo tự hành | M7 Howitzer Motor Carriage · M8 HMC · Pháo tự hành M12 · M40 Gun Motor Carriage · M3 Gun Motor Carriage · M15 Combination Gun Motor Carriage · M16 Multiple Gun Motor Carriage · T34 Rocket Launcher |
Pháo tự hành chống tăng | M3 Gun Motor Carriage · M6 Gun Motor Carriage · M10 3-inch Gun Motor Carriage · M18 Gun Motor Carriage · M36 Gun Motor Carriage |
Xe bán xích | M2 Half Track Car · M3/M5 Half Track Personnel Carrier · M4 Mortar Carrier · T30 Half Track |
Xe lội nước | Landing Vehicle Tracked · DUKW · Ford GPA · M29C Weasel |
Xe bọc thép | M8 Light Armored Car · M3 Scout Car 'White' · M20 Armored Utility Car · T17 Armored Car · T18 Armored Car |
Những thí nghiệm | M38 Wolfhound · T1/M6 Heavy Tank · T28 Tank/T95 GMC · Assault Tank T14 · Heavy Tank T29 · Heavy Tank T30 · Medium Tank T20 · T16 · T3 Half Track · T27 Armored Car T54 Gun Motor Carriage · T40/M9 Tank Destroyer · T19 Howitzer Motor Carriage · 8in Howitzer Motor Carriage T84 · T92 Howitzer Motor Carriage · T55E1 Motor Carriage · Light Tank T7/Medium Tank M7 · T88 Gun Motor Carriage |
Xe tăng và xe bọc thép của quân đội Mỹ trong thế chiến II |
Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref>
với tên nhóm “lower-alpha”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group="lower-alpha"/>
tương ứng, hoặc thẻ đóng </ref>
bị thiếu